Khảo sát hàm lượng 3 hoạt chất nhóm Curcuminoid trong nghệ vàng tại một số chợ tại Hà Nội
Nghệ vàng (Curcuma longa) là một cây thuốc quý, từ lâu đã được người dân sử dụng rộng rãi không chỉ trong ẩm thực mà còn trong y học cổ truyền. Bộ phận chủ yếu của nghệ vàng được sử dụng là phần rễ (còn gọi là củ). Củ nghệ vàng có thể được dùng tươi, thái lát phơi khô, hoặc tán thành bột. Hoạt chất chính có trong củ nghệ vàng là nhóm Curcuminoid, trong đó bao gồm Curcuinin (CUR), Demethoxycurcumin (DMC) và Bisdemethoxycurcumin (BDMC).
Dựa trên các nghiên cứu lâm sàng, nhóm Curcuminoid chiết xuất từ nghệ vàng có các hoạt tính sinh học quý như chống viêm, chống các tế bào ung thư, giúp bảo vệ gan, thận và một số bộ phận của con người.Curcuminoid không những có công dụng giúp phục hồi sức khỏe cho phụ nữ sau khi sinh, giúp chữa bệnh đau bao tử (viêm loét dạ dày - tá tràng) mà nó còn có tác dụng hỗ trợ chữa các bệnh mạn tính như: ung thư, bệnh tim mạch, gan, mật và bệnh mỡ máu.
Do có nhiều công dụng tốt nên nghệ vàng và các sản phẩm từ nghệ vàng đã và đang được sử dụng rộng rãi. Phần lớn người dân hiện nay sử dụng tinh bột nghệ được bán tại các sạp trong chợ, hoặc các công ty có uy tín.Sản phẩm của các công ty phân phối đều có xuất xứ rõ ràng, ngày sản xuất/ ngày hết hạn sử dụng.Chất lượng về Curcuminoid cũng được ghi trên nhãn nên người sử dụng phần nào yên tâm về chất lượng và xuất xứ của sản phẩm. Ngược lại, các sản phẩm tinh bột nghệ bán tại các sạp trong chợ không có nhãn mác, không truy xuất được nguồn gốc cũng như chất lượng sản phẩm.

Đến nay, tại Hà Nội, chưa có khảo sát khoa học nào về chất lượng các sản phẩm làm từ nghệ, bày bán tại các chợ, trênnhững sạp hàng - nơi có mật độ dân cư tập trung đông và mức độ tiêu dùng lớn. Đây đều là những sản phẩm không rõ xuất xứ, không được kiểm tra về chất lượng Curcuminoid.
Để đánh giá chất lượng các mặt hàng nghệ không rõ nguồn gốc, góp phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhóm các tác giả Nguyễn Thị Hồng Ngọc, Bạch Thúy Anh, Cao Công Khánh, Lê Thị Hồng Hảo (Viện Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm Quốc gia) đã thực hiện khảo sát hàm lượng Curcuminoid trong nghệ vàng tươi, nghệ vàng khô và bột nghệ trên nền mẫu thu thập tại 5 chợ của Hà Nội.
Đối tượng nghiên cứu: Mẫu nghệ vàng tươi, nghệ vàng khô và tinh bột nghệ được mua ngẫu nhiên tại các chợ: Khâm Thiên (Đống Đa), Nguyễn Cao (Hai Bà Trưng), Nghĩa Tân (Cầu Giấy), Chợ Hôm (Hoàn Kiếm), Ngọc Hà (Ba Đình).
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu: Từ tháng 05/2017 đến tháng 11/2017, mỗi tháng nhóm nghiên cứu thực hiện lấy tại mỗi chợ 02 mẫu nghệ tươi, 02 mẫu nghệ khô, 02 mẫu tinh bột nghệ. Tổng cộng đã thu thập và xử lý 150 mẫu, gồm 50 mẫu nghệ tươi, 50 mẫu nghệ khô và 50 mẫu tinh bột nghệ.
Phương pháp nghiên cứu: Lấy mẫu ngẫu nhiên và phân tích trong phòng kiểm nghiệm để đánh giá hàm lượng Curcuminoid trong từng sản phẩm cũng như sự khác biệt về hàm lượng Curcuminoid giữa sản phẩm tươi và chế phẩm khô.
Phương pháp phân tích:Sử dụng HPLC-PDA áp dụng theo H. HDQT.361 (tham khảo quy trình USP 38 - NF 33). Quy trình này đã được thẩm định với độ không đảm bảo đo 5%.
Chỉ tiêu phân tích:Hàm lượng ba hoạt chất chính của nhóm Curcuminoid: Cucumin (CUR), Demethoxycurcumin (DMC), Bisdemethoxycurcumin (BDMC) và hàm lượng tổng ba chất này; tỷ lệ ba hoạt chất trên trong một mẫu.
Kết quả phân tích cho thấy, nghệ tươi, nghệ khô có chứa cả 03 hoạt hoạt chất CUR, DMC và BDMC nhưng không phải mẫutinh bột nghệ nào cũng chưa đủ các hoạt chất này.Trongnhóm nghệ vàng tươi và nghệ vàng khô đều cho kết quả100%các mẫu đều chứa cả 3 hoạt chất là CUR, DMC và chỉ có 76% số mẫu đáp ứng yêu cầu này.
Trong nhóm nghệ vàng tươi, hàm lượng Cucumin dao động trong khoảng 0,6 – 1,2%. Các củ nghệ tươi có màu vàng sậm hơn sẽ có hàm lượng Cucuminoid cao hơn. Tuy có sự khác nhau về tổng hàm lượng nhưng phần lớn các mẫu nghệ vàng tươi đều cho tỷ lệ giữa 3 hoạt chất CUR, DMC và BDMC là 2:1:1.
Một số kết quả về hàm lượng và tỷ lệ các hoạt chất trong nhóm nghệ tươi và nghệ khô được tổng hợp tại bảng1 và bảng 2.
|
STT |
Mẫu |
Hàm lượng CUR(mg/g) |
Hàm lượng DMC (mg/g) |
Hàm lượng BDMC(mg/g) |
Hàm lượng tổng (mg/g) |
|
1 |
KT-T1 |
3,74 |
1,87 |
1,63 |
7,24 |
|
2 |
NC-T1 |
3,61 |
1,51 |
1,57 |
7,00 |
|
3 |
CH-T1 |
3,45 |
1,67 |
1,45 |
6,57 |
|
4 |
NH-T1 |
3,33 |
1,67 |
1,45 |
6,44 |
|
5 |
NT-T1 |
5,82 |
2,54 |
2,21 |
9,83 |
Bảng 1: Hàm lượng CUR, DMC và BDMC trong nhóm mẫu nghệ vàng tươi
|
STT |
Mẫu |
Hàm lượng CUR (mg/g) |
Hàm lượng DMC (mg/g) |
Hàm lượng BDMC (mg/g) |
Hàm lượng tổng (mg/g) |
|
1 |
KT-K1 |
39,3 |
13,6 |
5,23 |
58,1 |
|
2 |
NC-K1 |
38,0 |
13,2 |
5,06 |
56,2 |
|
3 |
CH-K1 |
69,6 |
24,1 |
9,27 |
103 |
|
4 |
NH-K1 |
53,4 |
18,5 |
7,11 |
79,0 |
|
5 |
NT-K1 |
53,0 |
18,4 |
7,06 |
78,4 |
Bảng 2: Hàm lượng CUR, DMC và BDMC trong nhóm mẫu nghệ vàng khô
Nhóm tinh bột nghệ được bán tại các chợ khác nhau có sắc độ vàng của mẫu khác nhau. Do nhóm Curcuminoid có màu vàng đặc trưng nên có thể thấy rằng, hàm lượng các chất trong những mẫu này cũng khác nhau.
Bảng 3 thể hiện một số thông tin về số mẫu có chứa đủ 03 hoạt chất như dược liệu gốc và hàm lượng nhóm Curcuminoid trong nhóm tinh bột nghệ. Kết quả phân tích cho thấy, hàm lượng chủ yếu của nhóm bột nghệ được bán tại các chợ nằm trong khoảng từ 0,1 đến 1,0% với tỷ lệ các chất trong nhóm Curcuminoid không giống so với nhóm nghệ vàng tươi và nghệ vàng khô.
|
STT |
Các chỉ số |
Số lượng |
Tỷ lệ % |
|
1 |
Số mẫu có chứa cả 3 hoạt chất nhóm Curcuminoid |
38 |
76 |
|
2 |
Số mẫu có hàm lượng Curcuminoid ≤ 0,01% |
5 |
10 |
|
3 |
Số mẫu có hàm lượng Curcuminoid 0,01 – 0,1% |
16 |
32 |
|
4 |
Số mẫu có hàm lượng Curcuminoid 0,1-1,0% |
21 |
42 |
|
5 |
Số mẫu có hàm lượng Curcuminoid 1,0-10,0% |
5 |
10 |
|
6 |
Số mẫu có hàm lượng Curcuminoid ≥ 10,0% |
3 |
6 |
Bảng 3: Thông tin chung nhóm bột nghệ
Tuy khảo sát của nhóm tác giả mới chỉ dừng lại ở so sánh hàm lượng hoạtchất có tác dụng sinh học của nhóm Curcuminoid mà chưa so sánh các chỉ tiêu chất lượng và an toàn khác,nhưng kết quả cho thấy, người tiêu dùng nên thận trọng đối với các sản phẩm nghệ và bột nghệ không rõ nguồn gốc, không có nhãn mác rõ ràng đang được lưu hành trên thị trường.
Đối với nhóm bột nghệ, kết quả phân tích hàm lượng các chất nhóm Curcuminoid dao động từ 0,1% đến 20% và tỷ lệ các chất không cố định. Điều này có thể do trong quá trình sản xuất bột nghệ, các hoạt chất có thể bị phân hủy hoặc không chiết được hết thành phần các hoạt chất.
Đối với các loại bột nghệ không rõ nguồn gốc, nhãn máckhông rõ ràng đang được bán trên thị trường, cần có thêm một khảo sát sâu hơn (không chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu chất lượng)để phân tích thêm nhóm chỉ tiêu an toàn, kim loại nặng, vi sinh... Có như vậy, nhà phân tích và người tiêu dùng mới có một đánh giá tổng quan về mặt hàng bột nghệ không có nhãn mác đang lưu thông trên thị trường.
Khảo sát của nhóm nghiên cứu đã bước đầu đánh giá được hàm lượng và tỷ lệ thành phần các hoạt chất nhóm Curcuminoid trong 150 mẫu (nghệ tươi, nghệ khô, bột nghệ). Kết quả cho thấy, 100% mẫu nghệ vàng, bột nghệ vàng đều có chứa các hoạt chất chính của nhóm Curcuminoid, 24% mẫu bột nghệ chỉcó chứa một hoặc hai hoạt chất trong ba hoạt chất chính, tỷ lệ thành phần hoạt chất trong nhóm nghệ tươi và nhóm nghệ khô, bột nghệ khác nhau, phụ thuộc vào quá trình sơ chế, sản xuất.
Đối với nhóm nghệ vàng tươi và nghệ vàng khô, màu vàng càng sậm càng cho hàm lượng Curcuminoid càng cao. Điều này không áp dụng với mẫu bột nghệ vì là sản phẩm đã qua chế biến nên có thể được trộn thêm một số chất phụ gia tạo màu.
Suckhoecuocsong.com.vn/Theo Tạp chí thử nghiệm ngày nay
Các tin khác
-
Sai lầm khi uống nước đậu đen rang để giảm cân
Nước đậu đen là loại đồ uống được nhiều người sử dụng để thanh lọc cơ thể, giảm cân, đốt cháy mỡ thừa. Nhưng nếu không uống đúng cách sẽ gây nhiều hệ lụy nguy hiểm cho sức khỏe -
Phòng đột quỵ: tuyệt đối 3 không khi tắm trong mùa lạnh
Thời tiết giá lạnh nên nhiệt độ xuống thấp, thói quen tắm tưởng chừng đơn giản nhưng nếu mắc phải những sai thói quen dưới đây sẽ có thể trở thành yếu tố kích hoạt đột quỵ, ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng. -
5 siêu thực phẩm rau củ giúp nạp protein hơn cả thịt
Những người ăn kiêng, người ăn chay hay tập gym đang muốn tìm kiếm những nguồn đạm dồi dào, sạch sẽ, thân thiện với sức khỏe hơn có thể lựa chọn 5 loại rau củ dưới đây trong thực đơn hàng ngày để bổ sung protein cho cơ thể. -
Cảnh báo 4 loại thịt dễ nhiễm ký sinh trùng nguy hiểm
Ký sinh trùng thường bị nhiều người bỏ qua nhưng chúng có khả năng gây ra những tổn thương lâu dài, ảnh hưởng nghiêm trọng cho sức khỏe. -
Đừng bỏ đi: 4 loại thực phẩm nảy mầm tăng dưỡng chất gấp bội
Có rất nhiều người có thói quen bỏ tỏi, gừng hay gạo lứt nảy nầm đi bởi nghĩ rằng các loại thực phẩm này sẽ gây nguy hại cho sức khỏ. -
4 bất thường ban đêm cảnh báo mắc ung thư phổi
Rất nhiều người quan niệm rằng tình trạng ho dai dẳng là triệu chứng đầu tiên và rõ ràng nhất của ung thư phổi. Điều này đúng, nhưng nguy hiểm hơn, nhiều trường hợp ung thư phổi lại khởi phát âm thầm, không hề gây ho ở giai đoạn sớm -
Thực phẩm hư hỏng độc hại khôn lường đến mức nào
Tiêu thụ thực phẩm hỏng đồng nghĩa với việc đưa vào cơ thể hàng loạt các độc tố vi sinh và chất chuyển hóa sinh học có khả năng gây tổn thương tế bào, rối loạn tiêu hóa, thậm chí dẫn đến bệnh mạn tính như ung thư gan. -
Rau khoai lang món ăn dân giã nâng cao tuổi thọ
Rau khoai lang, loại rau dân dã xào tỏi là món khoái khẩu của cả hai phái nam và nữ. Theo thời gian, loại rau này đã trở thành mặt hàng xuất khẩu được nhiều quốc gia ưa chuộng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... -
Điểm tâm sáng bằng trứng lợi ích bất ngờ
Sau một đêm dài, bữa sáng đảm nhiệm vai trò quan trọng, cung cấp năng lượng cho cơ thể bắt đầu ngày mới, khởi động quá trình trao đổi chất, cải thiện khả năng tập trung, ghi nhớ... -
Giảm mỡ bụng tuổi 50 với 7 món ăn tối giàu dinh dưỡng
Sau tuổi 50, tốc độ trao đổi chất chậm lại, cơ nạc giảm, và mỡ bụng – đặc biệt là mỡ nội tạng, trở thành "vị khách không mời". Chúng ta không cần phải áp dụng chế độ ăn ăn kiêng hà khắc hay tập luyện quá sức.
