Bài chầu quan Tuần Tranh
Dưới đây là bài chầu quan lớn Tuần Tranh.
Đệ tử tôi khấu đầu cung thủ
Tiến văn chầu quan đệ ngũ tuần tranh
Dọc
Ninh Giang chính quán quê nhà ,
Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.
Tính ông chính trực uy cương
Thần thông biến hóa ai đang, ai tày.
Uy ra lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,
Bộ tiên nàng thứ tự dâng huê.
Chầu thôi lại trở ra về,
Truyền quân dâng nước Thuỷ tề chan chan .
Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự,
Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.
Có phen xuất nhập trang đài,
Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.
Phú:
Nước Văn Lang vào đời Thục trị,
Giặc Triệu Đà cố ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bến sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông.
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông.
Gương anh khí sáng ngời muôn thủa
Trí hào hùng rạng rỡ non sông
Vinh quang thay nòi giống tiên rồng
Muôn dân còn ghi nhớ quan tuần tài cao.
Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy
Khắp mọi miền đã dậy thần cơ
Nhân dân trung nam bắc phụng thờ
Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần Tranh.
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Thơ:
Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng đao tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Hỡi Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Là Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang .
Oán:
Nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngày hai mươi lăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng.
Quan lớn oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân đành chịu nhục vinh lẽ thường.
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ trăng ơi
Hỏi mây hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu.
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng .
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Nước sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn .
Kiệt cùng hiu hắt trăng non
Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng
Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời
Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia kết lại thành đôi bạch xà .
Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc
Thử lòng người trong lúc lánh thân
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Long xà kì dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà
Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây
Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này
Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan
Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
Những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha
Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
Hại nhân nhân hại sự đà không sai
Nước Văn Lang vào đời Thục trị,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bến sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước Long hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Kiều dương:
Trên bát ngát long chầu hổ phục
Dưới tam đầu cửu vĩ chầu lên
Lân rờn phượng múa đôi bên
Quan tuần trắc giáng ngự lên sập rồng.
Sắc vua phong kiêm chi tam giới
Hay tróc tà sát quỉ trừ tinh
Quan tuần vạn phép muôn linh
Quyền ngài cai quản âm binh nhà trời.
Ngự đồng ai mình quyền bóng quý
Nương uy trời thụy khí đoan trang
Quan tuần hiển hách uy vang
Ra tay tế độ trần gian được nhờ.
Lúc bấy giờ ngài ra uy hùng hổ
Nương oai trời cứu độ muôn dân
Đùng đùng nổi trận phong vân
Ngự đồng ban phép cứu dân trừ tà.
Cánh dấu thiêng đem về mà trấn
Ai có tà xin quan trục tà ma
Dù ai vận hạn chưa qua
Kêu quan đệ ngũ bệnh đà tan ngay.
Nay dốc lòng ơn ông vạn bội
Hoặc ai mà nhầm lỗi truyền tha
Hay là cách trở sơn hà
Cầm cờ chỉ núi núi đà tan không .
Tiếng nức danh tung hoành dũng lược
Cảnh non bồng nước nhược bồng lai
Khi chơi bạn trúc bạn mai
Bạn loan tiệc ngọc xum vầy xướng ca.
Các bộ nàng ra tay bẻ quế
Quan dạo chơi thành thị hồ tiên
Ba ngàn thế giới dư thiên
Tiếng quan đệ ngũ khắp miền đông tây.
Uy ra thổi gió thét mây
Phép ông ứng hiện đổ cây tốc nhà.
Bốn phương trời đội ơn đức cả
Ai có lòng quan hỉ xả từ bi.
Thiên sinh văn võ gồm tài
Quan tuần lịch sự đáng trai anh hùng.
Một nguyện ngài giáng phúc trừ tai
Đồng gia bản hội ai ai cũng thịnh cường.
Nguyện thứ hai buôn bán đủ trăm đường
Tiền tài lưu loát bạc vàng đề đa.
Nguyện thứ ba công hầu các lễ
Hộ tiểu con phú quí xang giàu
Độ tiểu con nay sống dài lâu
Nhờ ơn quan lớn phúc lâu giầu bền.
Nguyện thứ tư cho quốc phú dân an
Qua cơn binh lửa dân an thái bình.
Nguyện thứ năm ông giáng phúc bản đền
Thủ nhang họ…… cung văn nương nhờ.
XE GIÁ HỒI CUNG !