Vai trò của phòng thử nghiệm phân tích thức ăn chăn nuôi
Thử nghiệm và chứng nhận hợp quy sản phẩm thức ăn chăn nuôi có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của ngành chăn nuôi và sản phẩm thức ăn chăn nuôi.
Thử nghiệm và chứng nhận hợp quy sản phẩm thức ăn chăn nuôi có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của ngành chăn nuôi và sản phẩm thức ăn chăn nuôi. Mục tiêu quan trọng nhất của phòng thử nghiệm là đem lại sự công bằng cho khách hàng và người sử dụng các sản phẩm thức ăn chăn nuôi; Đảm bảo các sản phẩm thức ăn chăn nuôi của nhà sản xuất phù hợp các yêu cầu tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng,được phép lưu thông trên thị trường.
Phòng thử nghiệm phân tích thức ăn chăn nuôi tiến hành các phép thử vật lý và hóa học cũng như các phép thử hóa học vi sinh và độc tố nấm mốc của thức ăn chăn nuôi. Phòng thử nghiệm phân tích thức ăn gia súc hỗn hợp hoàn chỉnh, thức ăn gia súc hỗn hợp sơ chế vitamin và chất khoáng, sử dụng thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc thực vật, động vật, khoáng chất và chất béo trong dinh dưỡng động vật và các mẫu sinh học.Dựa trên các phép thử, chất lượng dinh dưỡng và vi sinh của thức ăn chăn nuôi hỗn hợp hoàn chỉnh và thức ăn chăn nuôi hỗn hợp sơ chế được đánh giá có ảnh hưởng đáng kể đối với sự tăng trưởng và sức khỏe của động vật trong quá trình sinh sản, chăn nuôi và chất lượng dinh dưỡng của sản phẩm cuối cùng được sử dụng cho con người.
Phòng thử nghiệm cũng hoạt động, thông qua chương trình tối ưu hóa tuyến tính, công thức chế biến thức ăn gia cầm theo nhu cầu của khách hàng, đề cập đến công nghệ và dinh dưỡng trong chăn nuôi gia cầm thâm canh. Theo thỏa thuận với hoặc theo yêu cầu của khách hàng, Phòng thử nghiệm tiến hành phân tích theo phương pháp đã được quy định hoặc khách hàng cung cấpmiễn là được ban hành theo tiêu chuẩn Croatia. Trong trường hợp thứ hai, theo thỏa thuận với khách hàng, trước tiên phòng thử nghiệm giới thiệu và xây dựng phương pháp phân tích. Chọn lọc các giống gia cầm chất lượng cao trong chăn nuôi thâm canh, ngoài việc tối ưu,áp dụng các biện pháp phòng ngừa cụ thể phải tiêu thụ thực phẩm có chất lượng, đảm bảo năng suất chăn nuôi với mức tiêu thụ tối thiểu.
Do tầm quan trọng vô cùng to lớn của chất dinh dưỡng để đạt kết quả tốt trong chăn nuôi gia cầm, phòng thử nghiệm phân tích thức ăn chăn nuôi gia cầm của Centrehas đã hoạt động từlĩnh vực phân tích hóa học thức ăn gia súc, giới thiệu chuyên gia đến công nghệ chăn nuôi gia cầm và sản xuất thức ăn chăn nuôi hỗn hợp.
Từ năm 1969, phòng thử nghiệm phân tích thức ăn chăn nuôi đã thử nghiệm thức ăn chăn nuôi và thức ăn hỗn hợp cho gia cầm. Các phân tích đã tập trung vào thành phần dinh dưỡng cơ bản, canxi, phốt pho, vi lượng (natri, mangan, kali, đồng, kẽm và sắt), vitamin A và E (phương pháp Carr-Price và phương pháp đo màu Emmerie-Engel).
Năm 1974, phòng thử nghiệm đã mua một máy quang phổ hấp thụ nguyên tử để xác định vi lượng trong thức ăn và một bình cao áp calorimetric để xác định năng lượng tổng của thức ăn chăn nuôi và thức ăn hỗn hợp. Phát hiện sự hiện diệnvà xác định số lượng thuốc kháng vi sinh vật (amprol, ethopabate, sulphaquinoxaline, pyrimethamine, clorpindol, robenidine, nicarbazin), từ năm 1975, áp dụng đưa vào phân tích thức ăn hỗn hợp sơ chế và thức ăn gia súc hỗn hợp hoàn chỉnh.
Chỉ sau mười năm giới thiệu kỹ thuật sắc ký lỏng hiệu năng cao, kỹ thuật hiện đại nhất trong hóa học phân tích,phòng thử nghiệm đã mua một máy sắc kýlỏng hiệu năng cao (HPLC).Từ năm 1977, đã xác định bằng phương pháp HPLC vềhàm lượng vitamin A và E trong thức ăn chăn nuôi hỗn hợp sơ chế và thức ăn chăn nuôi hỗn hợp hoàn chỉnh. Yêu cầu của các nhà sản xuất anticoccidials kiểm soát nhanh bổ sung vào hỗn hợp sơ chế vitamin và khoáng chất và thức ăn chăn nuôi hỗn hợp hoàn chỉnh cho thấy sự cần thiếtphải mở rộng hoạt động HPLC. Xác định axit amin methionine và chất phụ gia chống ô xi hóa (BHT)vào hỗn hợp sơ chế vitamin và khoáng chất đã được áp dụng từ năm 1981,1982.
Khi sản xuất đòi hỏi giải quyết nhanh các vấn đề liên quan đến chăn nuôi, năm 1983, mua một máy phun khí 400 và máy tính. Có thể thấy kết quả phân tích hỗn hợp của thiết bị trong vài giây, tiết kiệm thời gian, hóa chất và không phát sinh các chất thải gây ô nhiễm môi trường. Từ năm 1984, phòng thử nghiệmđã áp dụng chương trình tối ưu hóa tuyến tính theonhu cầu thiết thực, trong thời gian ngắn giúp đưa ra các công thức hỗn hợp của các chất dinh dưỡng cân bằng tối ưu một bữa ăn cho vật nuôi...
Từ năm 1985, việc phân tích độc tố nấm - ochratoxin A, zeranol và zearalenone là một phần của công việc hàng ngày. Để phát hiện độc tố nấm mốc trong thức ăn chăn nuôi và thức ăn hỗn hợp, nhất thiết phải hợp tác với các chuyên gia về nấm để đánh giá dựa trên các mẫu cụ thể và việc lựa chọn các mẫu đó. Không phải lúc nào cũng đưa ra chỉ báo rõ ràng về sự hiện diện của độc tố nấm mốc và ngược lại. Theo phân tích về nấm, không nghi ngờ mẫucó chứa độc tố nấm mốc, điều đó không có nghĩa là không có độc tố nấm mốc trong thức ăn chăn nuôi. Để tránh sự cố trong quá trình tiêu hóa tinh bột sống ở động vật nhỏ và động vật ăn thịt, tinh bột trong thức ăn của chúng phải được xử lý nhiệt bổ sung bằng các kỹ thuật khác nhau (hơi nước quá nhiệt, micronization, nướng, vv…). Các quy trình này nhằm mục đích tăng khả năng tiêu hóathực phẩm ngũ cốc.
Nấm mốc và độc tố trong thức ăn chăn nuôi
Bằng cách xác định mức độ gelatin hóa trong ngũ cốc và thức ăn gia súc - được biểu thị bằng tinh bột thủy phân trong phần trăm tổng số lượng trong mẫu được hiệu chỉnh bằng giảmlượng đường và màu tự nhiên, có thể đánh giá xử lý nhiệt các loại ngũ cốc thành công. Nói chung, là nhờ việc bổ sung chất béo vào thức ăn hỗn hợp có ích lợi đáng kể (mật độ năng lượng với chi phí thấp nhất trên mỗi đơn vị năng lượng, vv…).
Trong hai mươi năm gần đây, một số nghiên cứu đã được tiến hành để xác định các chỉ số cần thiết cho các công thức và hướng dẫn tối ưu dựa trên đánh giá chất lượng của chất béo, vì việc giảm thiểu chất béo trong thực phẩm thông qua giảm phát triển ở động vật đơn bào. Về mặt này, chỉ số chất lượng tối ưu của chất béo là đánh giá phụ gia thực phẩm bằng cách xác định: axit béo tự do, tạp chất, axit béo bị oxy hóa, số iốt, số peroxit, thành phần axit béo, vv…, tính đồng đều của quá trình thực hiện xử lý nhiệt của hạt đậu nành bằng cách xác định hoạt động của urease, độ hòa tan của protein trong nước so với tổng protein và chất ức chế trypsin, vv…
Phòng thử nghiệm phân tích thức ăn chăn nuôi được trang bị để xác định độ ẩm, chất béo, chất xơ, protein…; xác định vĩ mô và vi lượng bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử; phương pháp quang phổ, phương pháp sắc ký; vi sinh - phương pháp phân tích độc tố nấm. Thực hiện các phân tích bằng các phương pháp tham chiếu như khuyến cáo theo tiêu chuẩn ISO và chấp nhận các phương phápnhư theo các tiêu chuẩn của Croatia hoặc các phương pháp được công bố trong AOAC.
Căn cứ vào quyết định của Bộ Nông nghiệp và Lâm nghiệp (Công báo NN số: 44/1999), Viện Thú y, Trung tâm chăn nuôi gia cầm Croatia là phòng thử nghiệm được cấp phép để kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi về vật lý, hóa học, vi sinh vật và kiểm tra độc tính.
Phòng thử nghiệm về nấm và độc tố nấm mốc được thành lập năm 1972;Chủ yếu khuyến khích thành lập phòng thử nghiệmvì ngành chăn nuôi gia cầm, do nhận thức ngày càng tăng về thực tế thức ăn chăn nuôi trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởnggây racác dịch bệnh của gia cầm. Ngay từ đầu, phòng thử nghiệm đã kiểm soát sự an toàn vi sinh vật nuôi, tiến hành xác định mẫu và vi khuẩn từ thức ăn gia súc và từ xác chết gia cầm. Sau đó, cũng phát hiện các loại thuốc kháng sinh trong phân tích thức ăn chăn nuôi hỗn hợp và thức ăn chăn nuôi. Phân tích các độc tố nấm mốc bằng phương pháp sắc kí lớp mỏng. Năm 1985, phòng thử nghiệm đã giới thiệu các phương pháp phân tích thuốc trừ nấm và phương pháp sắc ký hiệu năng cao cho độc tố nấm mốc.
Cuối năm 2000, các quy trình và phương pháp thử nghiệm vi sinh và độc tố nấm mốc của mẫu thức ăn theo tiêu chuẩn ISO và phương pháp phân tích AOAC. Thức ăn chăn nuôi là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng và hoạt tính sinh học, theo chất lượng và số lượng phải đáp ứng các yêu cầu của dây chuyền sản xuất thức ănchăn nuôi gia cầm hiện đại. Tuy nhiên, thức ăn chăn nuôi thường bị nhiễm nấm mốc tại một số điểm sản xuất, chế biến, vận chuyển hoặc bảo quản.
Ngoài việc phân hủy hóa học của carbohydrate, protein và các chất thiết yếu khác, mẫu thường giải phóng các sản phẩm thứ cấp của quá trình trao đổi chất mà chúng ta gọi là độc tố nấm mốc. Hiện tại, 25% tất cả ngũ cốc đều bị nhiễm độc tố nấm mốc. Hậu quả của thức ăn chăn nuôi bị ô nhiễm được phản ánh qua tình trạng tổn thất về giá trị dinh dưỡng và tính chất cảm quan, độc tố nấm mốc ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và kết quả chăn nuôi gia cầm.
Các hoạt động hiện tại của phòng thử nghiệmvề nấm và độc tố nấm mốc bao gồm các phép thử sau đây: Kiểm soát an toàn vi sinh nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi; Cách ly và xác định nấm mốc và vi khuẩn từ thức ăn chăn nuôi; Chẩn đoán bệnh do nấm gây ra; Kiểm soát an toàn độc tố nấm mốc của nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi bằng phương pháp TLC và HLPC để phát hiện độc tố nấm mốc (T-2, DAS, zearalenone và các dẫn xuất, ochratoxin và DON); Xác định anticoccidials trong thức ăn hỗn hợp và premix.
Phòng thử nghiệm về công nghệ của Trung tâm Chăn nuôi gia cầm đặc biệt tích cực trong việc khởi đầu sáng tạo, kỹ thuật sơ bộ cho hầu hết các trang trại và cơ sở chăn nuôi gia cầm. Bên cạnh đó, kiểm soát thường xuyên việc thực hiện và ứng dụng công nghệ, các thành tựu công nghệ mới trong sản xuất, đòi hỏi phải có các chuyến thăm thực địa thường xuyên của các chuyên gia và tại một số điểm nhất định của Trung tâm Chăn nuôi gia cầm. Vì chăn nuôi gia cầm đã được hiện đại hóa trong tất cả các giai đoạn, đáp ứng yêu cầu về nâng cao trình độ chuyên môn và khoa học,dẫn đếnthay đổi phạm vi và hồ sơ hoạt động của các chuyên gia. Đó là khởi đầu của việc kiểm soát chuyên sâu hơn các yếu tố môi trường xung quanh, trong sản xuất và các giai đoạn công nghệ cụ thể, do điều kiện bất lợi của chúng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và năng suất của gia cầm. Vì vậy, bên cạnh việc lập các tài liệu kỹ thuật sơ bộ để xây dựng các nhà máy chăn nuôi gia cầm, kiểm soát môi trường xung quanh và công nghệ sản xuất, các chuyên gia bằng công việc chuyên môn và khoa học của họ tham gia bảo vệ chăm sóc sức khỏe gia cầm. Việc đánh giá sản xuất thành công cũng nằm trong phạm vi hoạt động của họ, cũng như xác định các yếu tố tiêu cực có thể đặt rủi ro trong tất cả các hạng mục vàgiai đoạnsản xuất.
Suckhoecuocsong.com.vn/Theo Tạp chí thử nghiệm ngày nay